Tăng thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo

Trong thời gian qua, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 và các chương trình, chính sách liên quan của trung ương trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi luôn được sự quan tâm, chỉ đạo, quản lý điều hành kịp thời của các tỉnh ủy, HĐND,UBND các cấp; công tác phối hợp tuyên truyền, phổ biến của mặt trận, các đoàn thể; sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành liên quan và sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân.

Tích hợp, phát huy hiệu quả từ các chính sách
Chính sách dân tộc ngày càng đầy đủ, bao phủ toàn diện các lĩnh vực. Ảnh: T.L
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặt ra mục tiêu đến năm 2025 giảm 50% số xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; đến năm 2030 cơ bản không còn xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.

Tại Kom Tum, việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp chính sách kinh tế - xã hội tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt được những kết quả nhất định. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị bình quân là 0,58%/năm; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn bình quân là 0,12%/năm; thu nhập bình quân của hộ nghèo năm 2011 là 357.500 đồng/người/tháng đến năm 2021 là 644.000đồng/người/tháng; bình quân tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giai đoạn 2010-2015 giảm 4,11%/năm, giai đoạn 2015-2021 giảm 6,78%/năm…

Tại Bình Định, các huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã đầu tư xây dựng 94 công trình nước sinh hoạt tập trung, 100% dân cư nông thôn vùng dân tộc thiểu số và miền núi sử dụng nước hợp vệ sinh. Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trên 993.056 lượt người thuộc hộ nghèo, người dân sinh sống tại xã, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và tăng cường, có khoảng 98% trạm y tế xã, thị trấn có bác sĩ; 100% trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh thông thường; thu nhập bình quân của người dân đạt 30,5 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm bình quân 1,83%/năm, đạt chỉ tiêu đề ra….

Có thể thấy, hệ thống chính sách dân tộc ngày càng đầy đủ, bao phủ toàn diện các lĩnh vực, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giảm nghèo, hỗ trợ phát triển sản xuất, giáo dục - đào tạo, văn hóa… Nhờ vậy, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt được những thành tựu quan trọng, khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, so với sự phát triển của đất nước nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là vùng chậm phát triển nhất. Điều đó cho thấy, việc hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta vẫn còn những khó khăn, bất cập. Nguyên nhân chính là do hệ thống chính sách dân tộc nhiều về số lượng nhưng còn tản mạn, dàn trải, thiếu tính đồng bộ và sự kết nối giữa các chính sách. Nhiều chính sách có nội dung trùng lắp về đối tượng, địa bàn.

Tiếp tục tháo gỡ khó khăn về sản xuất, phát triển hạ tầng

Theo Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, trước thực trạng trên, Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan hữu quan cần bám sát tinh thần Nghị quyết 88/QH/2019 và Nghị quyết 120/QH/2020 của Quốc hội về đề án tổng thể và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-2030 và những yêu cầu của tình hình mới để triển khai, thực hiện tốt một số nhiệm vụ.

Trong đó, bổ sung những chính sách cụ thể để giải quyết và hạn chế tác động, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến khu vực miền núi, dân tộc, nhất là tháo gỡ những khó khăn về sản xuất, lưu thông và tiêu thụ nông sản; trợ cấp cho các đối tượng mất việc làm khu vực phi chính thức, người chưa và không có hợp đồng lao động;

Tích hợp, phát huy hiệu quả từ các chính sách
Cả nước hiện có 3.434 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ảnh: T.L

Tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng các vùng khó khăn, nhất là giao thông để tăng cường giao thương thúc đẩy sản xuất hàng hóa, cải thiện điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin cho người dân;

Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách lâm nghiệp, làm tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng gắn với ổn định và nâng cao thu nhập, góp phần nâng cao đời sống đồng bào gắn với rừng; giải quyết triệt để tình trạng phá rừng, vi phạm pháp luật, nhất là đối với các tỉnh Tây Nguyên;

Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc; quy hoạch, bố trí sắp xếp, di dời các hộ dân trong vùng thiên tai nguy hiểm gắn với sắp xếp lại các công ty nông lâm nghiệp theo chỉ đạo của Bộ Chính trị; trước mắt cần tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế chính sách để sớm hoàn thành việc xây dựng nhà ở mới cho các hộ dân bị thiệt hại do bão lũ vừa qua tại các tỉnh khu vực miền Trung, giúp đồng bào ổn định sống;

Giải quyết dứt điểm vấn đề di dân các tỉnh khu vực Tây Nguyên, trọng tâm là Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng để bảo đảm người dân ổn định cuộc sống cũng như bảo đảm thực hiện tốt chính sách dân tộc của Nhà nước;

Xây dựng và triển khai nhanh, có hiệu quả Chương trình nhiệm vụ khoa học, công nghệ cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, làm tiền đề và động lực cho phát triển lực lượng sản xuất, thay đổi tập quán và hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp, góp phần thực hiện tốt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Chương trình Nông thôn mới và Chương trình giảm nghèo bền vững;...

Theo Quyết định số 861/QĐ-TTg, ngày 4/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ, cả nước hiện có 3.434 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn 51 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: 1.673 xã khu vực I, 210 xã khu vực II và 1.551 khu vực III.