Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân
Theo TS. Vũ Chiến Thắng - Thứ trưởng Bộ Nội vụ, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; coi trọng giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước.
TS. Vũ Chiến Thắng phân tích, Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Nhà nước không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào. Người có tín ngưỡng, tín đồ các tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin tại gia đình, cơ sở thờ tự hoặc điểm nhóm hợp pháp.
Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Ảnh: minh hoạ |
Từ quan điểm đến chính sách và thực tiễn đều minh chứng rằng, Nhà nước Việt Nam luôn bảo đảm trên thực tế sự đa dạng, hòa hợp, bình đẳng giữa các tôn giáo và không có sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. |
Các tôn giáo đều chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó, đồng hành với dân tộc, không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Các tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ có đóng góp nhất định cho đất nước trên nhiều phương diện của đời sống xã hội, tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện, xóa đói giảm nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước, là một nhân tố xã hội, văn hóa tích cực, góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc.
Loại hình tổ chức của các tôn giáo cũng đa dạng: Có những tôn giáo chỉ có một tổ chức duy nhất (Phật giáo, Công giáo) và cũng có những tôn giáo có rất nhiều tổ chức khác nhau (Tin Lành, Cao Đài)... Nếu như nhiều quốc gia thường có một tôn giáo giữ vai trò chủ đạo, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị, xã hội, thì ở Việt Nam có nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng cùng tồn tại và bình đẳng về vị thế, không có tôn giáo nào giữ vai trò chủ đạo, ảnh hưởng quyết định đến đời sống xã hội Việt Nam.
Những thành tựu thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta cho thấy, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là quan điểm, chính sách xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Quan điểm đó được thể hiện trong các văn bản của Đảng ngay từ khi mới thành lập, nhất là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ về công tác tôn giáo được ghi dấu bằng nhiều nghị quyết, tiêu biểu như: Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng...
Quan điểm nhất quán ấy đã được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và các chính sách nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực tế của người dân, phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (năm 1946) và các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau này, đều khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người. Hiến pháp (năm 2013) ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”.
Cộng đồng quốc tế đánh giá cao tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam
Có nhiều dẫn chứng sinh động về việc Đảng, Nhà nước luôn bảo đảm và tạo điều kiện để các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo của tất cả các tôn giáo được diễn ra bình thường theo quy định pháp luật. Điều đó được thể hiện sinh động trên thực tế và được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Đặc biệt, những ngày lễ trọng của các tôn giáo, như: lễ Phật đản, lễ Vu lan (của Phật giáo); lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh (của Công giáo và Tin lành); lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, lễ kỷ niệm ngày khai đạo (của đạo Cao Đài); lễ hội Katê của đồng bào Chăm; tháng chay Ramadan (của Hồi giáo),… được tổ chức với quy mô lớn, thu hút đông đảo tín đồ tham dự.
Sau khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016) đi vào cuộc sống, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã công nhận 1 tổ chức tôn giáo (Giáo hội Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam), cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 3 tổ chức (Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn Việt Nam; Hội thánh Tin lành Liên hiệp Truyền giáo Việt Nam; Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su Ky-tô Việt Nam).
Việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung trên phạm vi cả nước được tạo điều kiện thuận lợi. Ảnh: TL |
Việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung trên phạm vi cả nước được tạo điều kiện thuận lợi với gần 4.000 điểm, nhóm được chấp thuận. Các tổ chức tôn giáo hoàn toàn chủ động trong việc củng cố tổ chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành theo hiến chương, điều lệ và quy định của pháp luật.
Thực hiện các quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, hàng năm, số lượng chức sắc, chức việc, nhà tu hành và những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp không ngừng tăng, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, hiện cả nước có hơn 6.500 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; hơn 16.780 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam và của đồng bào các dân tộc thiểu số luôn được Đảng, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm.
Với số lượng người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam ngày càng tăng, trong đó có một bộ phận là tín đồ tôn giáo, chính quyền các cấp đã quan tâm, tạo điều kiện cho người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hiện nay, có 67 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp trên cả nước.
Các tổ chức tôn giáo cũng luôn được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện tham gia các hoạt động an sinh xã hội, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, y tế, và hoạt động từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội. Những năm qua, các tổ chức tôn giáo đã chi hàng nghìn tỷ đồng cho hoạt động của các cơ sở giáo dục, cơ sở y tế, cơ sở bảo trợ xã hội và các hoạt động từ thiện nhân đạo, đồng thời tích cực tham gia cùng chính quyền địa phương trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.
Trong lĩnh vực giáo dục, cả nước đã có khoảng 300 trường và 2.000 cơ sở giáo dục mầm non, 12 cơ sở dạy nghề do các tổ chức tôn giáo thực hiện. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức tôn giáo đã thành lập các đội tình nguyện hỗ trợ xóa mù chữ cho trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; lập chi hội khuyến học, khuyến tài hỗ trợ cho học sinh nghèo hiếu học, xây dựng lưu xá, tiếp sức mùa thi...
Trong lĩnh vực y tế, cả nước có trên 500 cơ sở y tế, phòng khám chữa bệnh từ thiện do các tổ chức tôn giáo thành lập dưới nhiều hình thức. Kinh phí tổ chức do tổ chức, cá nhân tôn giáo đóng góp để thực hiện các hoạt động này mỗi năm lên tới hàng chục tỷ đồng; thành lập các đoàn khám, chữa bệnh lưu động, phát thuốc miễn phí cho người nghèo. Các phòng khám, chữa bệnh của các tổ chức tôn giáo đã và đang hoạt động hiệu quả, góp phần cùng chính quyền địa phương chăm lo sức khỏe và lan tỏa tinh thần yêu thương trong cộng đồng.
Có thể khẳng định, thành tựu về thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam ngày càng sôi động, đã củng cố niềm tin của chức sắc, tôn giáo và đồng bào có đạo với Đảng, Nhà nước ta, tăng cường khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, phát huy dân chủ ở cơ sở, tạo không khí phấn khởi tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân nói chung và chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo nói riêng, phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. |