Tranh hổ trong lễ cúng đất ở Phú Long. |
Ghi đậm dấu ấn lịch sử, văn hóa của đồng bào Phú Long, tỉnh Bình Thuận.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí (biện soạn thời vua Tự Đức), vùng đất Hàm Thuận – Bình Thuận xưa thuộc vương quốc cổ Champa. Cuối thế kỷ XVII, quân đội của chúa Nguyễn được lệnh tiến sâu xuống phía Nam, năm Đinh Sửu (1697) Bình Thuận chính thức thuộc chính quyền Đàng Trong. Theo sau các đạo quan binh của triều đình là các đợt di cư của người dân từ Ngũ Quảng, họ lần lượt ghé vào các cửa biển Bình Thuận. Phú Hài (nay là Phú Long) là một trong số đó.
Khi người Việt vào lập đạo Phú Hài thì vùng đất này ngày trở thành một cửa khẩu quan trọng trên tuyến giao thông đường biển Bắc – Nam. Lúc bấy giờ tàu buôn Trung Hoa vào buôn bán rất đông, tạo nên cảnh trên bến dưới thuyền. Dần về sau, theo dòng sông Cái người Việt tiến sâu hơn vào nội địa, hình thành các làng như: Thiện Mỹ, Dương Xuân, Phú Trường… thuộc Phú Long ngày nay.
Mặc dù cách xa vùng đất cội nguồn cả về không gian lẫn thời gian nhưng họ vẫn mang theo phong tục tập quán ở quê hương cũ và vẫn duy trì. Bình Thuận lại là xứ có tiếng nhiều ma (trong câu “cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận”), vì thế tục cúng đất/tá thổ cũng được xem là bệ đỡ tâm linh cho người dân quê trên vùng đất mới.
Phẩm vật dâng cúng ngoài các loại hoa quả nhất định phải có nải chuối, trầu cau, rượu, trà. Mâm cúng thần hoàng có 1 con gà trống kiến luộc chín, dĩa tam sên (khúc thịt ba rọi, quả trứng và con cua đồng, ghẹ hoặc tôm luộc chín), 12 chén chè đậu, 6 dĩa xôi, 1 trái dừa (đã bóc sạch vỏ) – những sản phẩm cây nhà lá vườn của quê hương Bình Thuận.
Mâm Hội đồng có nhiều món hơn, được chế biến từ sản vật rất đặc trưng của vùng đồng bằng duyên hải gồm: 6 dĩa gỏi cá (cá trích hoặc cá mai), bánh tráng nướng, tô canh chua, cơm trắng, cá nhám khô nướng chín, con mắm, dĩa rau muống luộc, thuốc lá, bánh ngọt, chén gạo muối và 1 “bộ đồ” (giấy cúng), trên đó có vẽ một số con vật (gà, vịt, heo, trâu, bò, ngựa, voi, cọp…), nông cụ và một số vật dụng như: ấm, chén, võng, dao, kéo, gương, lượt...
Thông qua lễ cúng đất, hậu thế có thể hình dung về bức tranh dân cư hồi thế kỷ XVII - XVIII, cũng như quá trình giao thoa và tiếp biến văn hóa Việt - Chăm trên vùng đất Bình Thuận.
Tạ ơn người đã có công khai phá đất
Lễ cúng đất được tổ chức vào mùa xuân, thời gian là lúc xế chiều. Bàn cúng được đặt bên hiên nhà hoặc dưới đất trước sân; bên dưới trải một chiếc chiếu. Phẩm vật chia ra 2 mâm, cúng thần hoàng bổn xứ cùng các vị tôn thần cai quản xứ sở, khuôn viên gia cư và mâm cúng ông bà chủ đất cùng những cô hồn xiêu mồ lạc mả, thập loại chúng sinh không nơi nương tựa.
Sau khi sắp đặt lễ xong, gia chủ thành khẩn dâng hương để tỏ lòng biết ơn của mình đối với tiền chủ khuất mặt đã cho thuê đất trong năm qua; đồng thời xin được tiếp tục mượn đất trong năm mới và hứa sẽ cúng tạ đầy đủ. Cùng với đó là cầu xin thần, chủ phù hộ cho đất đai không bị uế tạp, trồng cây nào, nuôi con gì đều sinh trưởng phát triển tốt.
Kế thúc lễ cúng, gia chủ lấy 1 tờ giấy cúng (trong bộ đồ thần) trên có vẽ con cọp dán lên vách hiên nhà, mặt quay ra hướng đại lợi với ý ông hổ sẽ trấn giữ, bảo vệ gia chủ và khu đất đó.
Trước khi cúng, chủ nhà còn chuẩn bị cái bẹ chuối gập lại (mí cao mí thấp, ở giữa buộc lạt cố định) giống như cái gùi, để sau khi cúng xong thì gấp 1 ít đồ cúng cho vào gùi rồi đem ra bìa đất đặt dưới gốc cây để ông bà chủ mang về cho con cháu. Gạo muối được rải đi, giấy cúng đem đốt. Lễ cúng tá thổ theo đó đã hoàn mãn.
Chiếc gùi làm bằng bẹ chuối trong lễ cũng đất. |
Cúng đất là một tập quán đẹp của người dân vùng đất Phú Long, thể hiện lối ứng xử khiêm nhường, thân thiện khi “mượn đất”, “thuê đất” để định cư, tạo dựng cuộc sống mới; đồng thời phản ánh thái độ trân trọng, có trước có sau với những người đã có công khai phá để người đến sau có nơi tá túc làm ăn, phát triển sản nghiệp…